Hoàn thiện dải thảm Bê tông nhựa Asphalt quanh đường trục chính Đồi Mộc
Ở giai đoạn 1 Lạc Hồng Viên đã tiến hành dải thảm Asphalt 800m phía giáp giữa Đồi Kim và đồi Mộc đã góp phần thuận tiện cho sự di chuyển giữa các đồi và thuận tiện cho việc di chuyển tới đồi Mộc của Lạc Hồng Viên.
Để đáp ứng nhu cầu đi lại và đưa mộ vào công viên của khách hàng ở bên đồi Mộc, Ban Quản lý Dự án Công viên nghĩa trang Lạc Hồng Viên đã hoàn thiện dải thảm Bê tông nhựa Asphalt nốt phần còn lại xung quanh đường trục chính của Đồi Mộc.
Tổng chiều dài của cung đường là 1500m, rộng 5m, chạy quanh khu vực đồi Mộc. Được thiết kế và thi công theo tiêu chuẩn hiện đại nhất, sử dụng hệ thống nguyên liệu Bê tông nhựa Asphalt dải thảm, cung đường đã đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thăm quan đi lại của du khách. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch đưa mộ vào đồi của khách hàng khi đến với Lạc Hồng Viên.
Dưới đây là một số hình ảnh trong quá trình thi công cung đường:
Lạc Hồng Viên tháng 11 năm 2019
Điểm nhấn của tháng 11 này là việc Ban giám hiệu và hơn 30 học sinh tiêu biểu của trường Lương Thế Vinh lên thăm mộ PGS – Nhà giáo Văn Như Cương nhằm tri ân Thầy nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11.
Công trình Nhà tranh vách đất được dựng trên sân Chùa Kim Sơn Lạc Hồng cũng được xây dựng xong.
Những kiêng kỵ phải tránh khi cải táng, bốc mộ, sang cát nếu không gia tộc sẽ lụi tàn
Vào dịp cuối năm, chúng ta thường tổ chức cải táng mộ phần, sửa sang lại mộ cũ, quy tập mồ mả đặt dải dác các nơi về một nghĩa trang gia đình dòng họ hoặc một nơi mới.
Phong tục cải táng khởi nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại và thương lái Trung Quốc chết tại Nam mà gia đình có nhu cầu đưa xương cốt về chính quốc. Về sau thành lệ và thành phong tục. Ngoài ra, cũng do yếu tố địa lý Đồng bằng Bắc Bộ phần nhiều là đất pha cát phù xa, khi chôn người chết xuống phần nhiều là tiêu hết thịt (thậm chí có chỗ đất còn hao cả xương nếu không cải táng thì chỉ còn đất) mà cát phù xa thì bẩn nên phải tắm rửa thay áo. Trong khi đó gỗ áo quan chôn trên đất tại Đồng Bằng Bắc Bộ nhanh hỏng và hay xập ván thiên bởi mùa lũ thì đầy nước, mà mùa cạn thì khô, mối lại hay tụ lại trên chỗ đất cao (mồ mả hay cao hơn ruộng) nên hay xông vào áo quan.
Thầy Thích Trí Thịnh – Trụ trì chùa Kim Sơn Lạc Hồng (ở Công viên nghĩa trang Lạc Hồng Viên, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hoà Bình) cho biết: Cải táng mộ phần là thể hiện sự hiếu thảo của gia đạo, mong muốn đem lại những gì tốt đẹp nhất cho người quá cố. Công việc này phải được thực hiện trước khi ánh mặt trời mọc, thường kéo dài từ đêm cho đến khoảng 5 – 6h sáng vì người xưa quan niệm, khi mặt trời chiếu vào, phần cốt sẽ bị sạm và đen; nghĩa là ánh dương chiếu vào phần cốt sẽ không được tốt”
Tuy nhiên, đối với những phần mộ hoả táng, được đậy trong hũ kín nên hoạt động di chuyển có thể diễn ra trong ban ngày.
Đối với người Việt, điều quan trọng nhất trong việc cải táng, sang cát là phải xem tuổi của người đứng ra làm (trưởng họ, con trưởng) trong năm có ý định sang cát có phù hợp để thực hiện. Thời gian tốt nhất trong năm để tiến hành cải táng là từ cuối Thu đến trước ngày Đông Chí của năm.
Thời điểm không nên tiến hành cải táng
Trước khi tiến hành cải táng, gia đình phải kiểm tra mộ phần, xem đã đủ thời gian cải táng chưa, mộ đó có kết hay phạm trùng không? Mộ kết là những ngôi mộ sau một thời gian hoặc vừa chôn, đất đùn lên ngày một to khác thường. Đây có thể là do tính chất vật lý của đất. Có nhiều cách để kiểm tra mộ kết như bằng các phương pháp cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường khí…
Khi gặp trường hợp mộ kết thì tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra vô vàn rắc rối trong cuộc sống của cả dòng họ. Sẽ chuyển cát thành hung, biến vượng thành lụi, từ lụi bại kinh tế đến sức khoẻ, mọi điều trong cuộc sống.
Một loại khác người ta thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm trùng. Có nhiều loại trùng nhưng biểu hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có hàng loại mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn.
Chọn hướng đặt mộ và chọn đất xây mộ hợp phong thủy
Bài viết này Lạc Hồng Viên nhằm tư vấn cho quý vị cách chọn hướng mộ hợp phong thủy, lập hướng mộ phần theo phong thủy khoa học.Hướng dẫn cách xem thế đất đặt mộ, chọn vị trí đẹp hợp lý nhất.
Khi quyết định xây mộ cho người quá cố thì điều đầu tiên là phải chọn được vị trí đất đẹp và hướng tốt, hợp phong thủy. Một số kiến thức tư vấn dưới đây của Công viên Nghĩa trang Lạc Hồng Viên sẽ giúp các bạn chọn được vị trí đất, xem thế đất cũng như chọn hướng mộ hợp phong thủy.
1, Chọn vị trí đất để đặt mộ
Trước tiên là tìm một mảnh đất đẹp phù hợp với phong thủy mộ phần để tiến hành. Các bạn cần tìm các thầy địa lý giỏi, có kinh nghiệm để nhờ họ giúp đỡ về cách xem thế đất đẹp.Một số đặc điểm chung của vị trí đất cần đạt được như sau :
Nguyên tắc vàng là Sơn và Thủy
– Nếu có nước chảy xung quanh là tốt nhất.Cố gắng tránh trước mộ có nước xung xạ hoặc thẳng đến thẳng đi.Thủy là nguồn của tiền của, là ngoại khí của sinh khí, nếu chảy quanh huyệt mộ là sinh thủy, vượng, nếu đi không về, tiền của tiêu tán, là đất không vong, còn gọi là tử địa hoặc tuyệt địa.
– Tìm những nơi phía sau có núi làm nơi đỡ đầu.Núi đằng sau nhà gọi là tựa sơn, còn gọi là núi Huyền Vũ. Nếu núi dựa đầy đặn, to lớn hùng vĩ, hình vuông, gia chủ giàu có. Núi hình nhọn gọi là núi hình chim phượng, nữ gia chủ phát tài phát phúc.Núi hình mâm xôi, gọi là hình cái chuông vàng, gia chủ phát quan.
Đó là hai nguyên tắc vàng trong chọn thế đất và lập phương vị mộ phần, lập hướng xây mộ chuẩn phong thủy.
Một số nguyên tắc khác về xem thế đất đặt mộ
– Trái Phải tốt nhất có Sa hộ vệ. – Lập đương vận vượng sơn vượng hướng hoặc lập hướng thu cát thủy trước mặt. – Không đặt mộ nơi có những cây to cổ thụ, rễ cây vươn ra có thể đâm vào mộ. – Tránh những nơi ồn ào, hay có chấn động như gần đường lớn, gần nhà máy sản xuất, công trường …
Tất nhiên để chọn được vị trí đặt mộ hợp phong thủy trọn vẹn là điều gần như không thể, do đó chúng ta chỉ cố gắng ở mức tối đa để có những vị trí tốt.
2, Chọn hướng xây mộ theo phong thủy
Đầu tiên các bạn phải xác định rõ hướng mộ là hướng chân hay đầu, bia mộ đặt ở đầu hay chân người chết.Xin được giải thích rằng hướng mộ ở đây ý nói hướng từ đầu tới chân mộ và bia mộ phải đặt ở phía đầu mộ.Vì như thế thì người đến viếng sẽ đứng ở chân mà nhìn lên đầu người quá cố.
Tìm hiểu sơ qua phong thủy lập hướng mộ
Lập hướng mộ phần xây cũng tương tự lập hướng nhà, cũng cần phải tránh các phương vị Hoàng Tuyền, và tuyến Không Vong. Bởi nếu lập Mộ vào các tuyến này sẽ tổn đinh phá tài và khiến cho con cháu suy bại, khi động thổ cũng cần phải tránh phạm Bát sát Hoàng tuyền,Tam sát phương, Mậu Kỷ đại sát, và Trùng tang.
Tuy nhiên khi Cải táng thì không còn coi nặng vấn đề Trùng tang nữa mà có thể bỏ qua, và cần lập theo hướng tốt như Lập hướng thu cát Thủy trước mặt, vì Dương trạch trọng hướng Cửa, Âm trạch trọng hướng Thuỷ.
Hướng mộ, như các mẫu mộ của chúng tôi cũng cần phải lấy hướng có Khí thuần khiết, không pha tạp khí xấu. Nghĩa là, nếu tọa hướng của mộ mà bị kiêm hướng (lệch nhiều) thì phải kiêm cho đúng pháp độ, theo cách lập hướng của Phong thủy Huyền không, và nếu có thể kết hợp, thì lập theo hướng có Du niên tốt theo tuổi người chết, theo cách phối hợp Mệnh cung với trạch vận của Phong thủy Bát trạch.
Đặc biệt là, nếu thầy địa lý dùng phân kim thì phải tránh xung sát với mệnh vong (người chết).
Hướng đặt mộ hợp phong thủy theo tuổi người chết
1, Các năm Dần – Ngọ – Tuất : Hướng tốt là hướng Đông và Tây, hướng xấu là hướng Bắc. 2, Các năm Thân – Tý – Thìn : Hướng tốt là hướng Đông và Tây; hướng xấu là hướng Nam. 3, Các năm Tị – Dậu – Sửu : Hướng tốt là hướng Nam và Bắc, hướng xấu là hướng Đông. 4, Các năm Hợi – Mão – Mùi : Hướng tốt là hướng Nam và Bắc; hướng xấu là hướng Tây.
Thầy và trò học sinh trường Lương Thế Vinh tới dâng hương tưởng nhớ cố Phó giáo sư – Nhà giáo Văn Như Cương
P.GS, Nhà giáo Văn Như Cương sinh ngày 01/07/1937 mất ngày 09/10/2017 được an táng tại Nghĩa trang Lạc Hồng Viên vào ngày 14/11/2017, ông là người thành lập ra trường dân lập đầu tiên tại Việt Nam là trường Trung Học Phổ Thông Lương Thế Vinh.
Ngày Nhà giáo Việt Nam đang tới gần, nhân dịp này Ban lãnh đạo Nhà trường đã tổ chức đưa gần 30 em học sinh tiêu biểu của Trường, là các em hoạt động trong công tác đoàn lên thăm mộ thầy. Phó Giáo Sư – Nhà giáo Văn Như Cương. Nhớ tới công lao của thầy học sinh không khỏi xúc động và rơi những giọt nước mắt.
Tiếc thương một người thầy vĩ đại, vô cùng biết ơn thầy, một Nhà giáo mẫu mực, hết lòng vì học sinh, luôn răn dậy học sinh phải lấy đức làm kim chỉ nam, gần 30 học sinh của Trường Lương Thế Vinh cả cấp 2 và cấp 3 tiêu biểu đã tới thành kính dâng hương tưởng nhớ tới người thầy vĩ đại trong dịp 20 – 11 đang tới gần.
Dưới đây là một vài hình ảnh:
Chiêm ngưỡng khuôn viên phần mộ gia tộc thực tế tại Lạc Hồng Viên
Tháng 10 này Lạc Hồng Viên tiếp tục sản xuất chuỗi các video Lạc Hồng Viên TV.
Công trình dựng nhà tranh vách đất trên chùa Kim Sơn Lạc Hồng đã được triển khai và đang dần đi vào hoàn thiện.
Tổ chức tang lễ theo tập quán của người Việt Nam
Trên đời có 2 việc mà thường thì chúng ta sẽ có nhiều thiếu sót đó là đám “Hiếu” và “Hỷ”, tuy nhiên với đám hỷ thường thì chúng ta đã có sự chuẩn bị từ trước nên mọi việc sẽ dễ dàng hơn và có sự chuẩn bị chu đáo hơn. Còn với đám “Hiếu” nhất là đột ngột trong khi mọi người đang đau buồn, bối rối sẽ rất khó để tổ chức được chu đáo. Chính vì vậy thường sẽ là người thân gần gũi trong gia đình và hàng xóm sẽ đến giúp đỡ gia đình chuẩn bị các công việc, và tiếp khách giúp gia đình. Dưới đây là quy trình tổ chức một tang lễ theo truyền thống của người Việt do Lạc Hồng Viên sưu tầm và đúc kết lại mong rằng sẽ giúp được phần nào quý vị trong lúc tang gia bối rối để tránh được các thiếu sót.
I. Công tác chuẩn bị
Chuẩn bị trước khi nhập quan
Trước khi nhập quan cho người mất, theo quan niệm truyền thống, mỗi gia đình phải chuẩn bị chu đáo những điều sau cho người mất.
– Nước thơm gồm gừng tươi, bưởi, bồ kết, ngải cứu, hương nhu, thì là, tía tô, bồ kết. – 1 bộ quần áo mới của người chết gồm áo may ô, áo sơ mi, quần lót, quần âu, áo vest, giầy, thắt lưng, cà vạt, 02 đôi bít tất mới. Chú ý với người chết là nam, nữ thì khác chút mà cũng tương tự. – 1 bộ đầy đủ vật dụng của người chết nữa (bàn chải đánh răng, gương, lược, phấn son (nếu có), nước hoa, kính lão, quần áo, giầy guốc, máy cạo râu) – 1 bộ trang điểm: phấn, son. – Vải đám tang để phủ lên người chết, làm khăn tang; vải vàng làm khăn tang và vải xô trắng – Những vật dụng để vào quan tài người mất: Đá khô, miếng vàng, miếng bạc (có nơi có cả miếng ngọc), bộ chắn, bông (nút hậu môn, tai, mũi), tiền lẻ (loại 1000, 2000 để vài tờ vào linh cữu) – Liên hệ với nhà chùa xem giờ nhập quan, nơi chôn cất – Liên hệ đội kèn trống
Chuẩn bị bàn thờ
Dù tổ chức đám tang ở nhà tang lễ nhưng các gia đình không dùng bàn thờ nhà tang lễ mà vẫn cần tự chuẩn bị bàn thờ riêng gồm: 02 cây chuối nhỏ, 02 lọ hoa (nghiêm cấm dùng hoa huệ ), 02 bát hương (bát hương xin ở chùa, nhờ nhà chùa bốc cho rồi đem về, 1 bát để trên linh cữu, 1 bát để ở bàn thờ), 01 di ảnh, 01 mâm ngũ quả gồm (05 loại, tùy vào từng hoàn cảnh gia đình mà bày biện), 01 thùng các tông (để đựng hương đến viếng), 01 chậu nước (để nhúng hương), 01 thùng các tông nhỏ (đựng phong bì viếng) 01 mâm để khăn tang, áo xô, nến cốc to 1 thùng, nến cốc nhỏ 1 thùng; 07-09 khúc chuối (để cắm hương trên linh cữu).
Ngoài gia chủ, cần có thêm 01 người đứng châm hương đưa cho khách, 01 người đỡ lễ khách dâng.
Chuẩn bị sẵn đội xé khăn tang, áo xô
– Dao 3 con, kéo 3chiếc – Sau khi được xé ra, 1 người trong BTC tang lễ ra, xếp theo từng gia đình trong họ, ghi tên ở ngoài, số còn lại để đó dùng dần.
Đội rót trà, nước, thuốc, trầu cau mời khách
Đám tang sẽ có rất nhiều người ra vào hỏi thăm và phúng viếng, vì thế các gia đình phải phân công và chuẩn bị 2-3 người rót rà, pha nước mời khách. Riêng về trầu cau nên nhờ 2 cụ bà đảm nhiệm việc têm trầu.
Chuẩn bị bàn tang lễ
– Sổ tang lễ 01 quyển (ghi danh sách những cá nhân, tổ chức đến viếng). – Đĩa dâng lễ = 20-30 chiếc, phong bì trắng 01 tập, bút 03 chiếc – Băng đen nhựa = số lượng người thân trong gia đình, băng đen nilon 1 tập cho khách. – Cáo phó 3-5 tờ dán, 01 míc, 01 đài phát – Gia đình cũng phân công 02 người đỡ hoa, tiếp khách; 02 người trực ở bàn tang lễ để ghi sổ + đọc báo khách vào viếng yêu cầu giọng nói truyền cảm trầm ấm.
Chuẩn bị bàn ghi sổ tang
Mỗi gia đình cần chuẩn bị sẵn 01 sổ tang để ghi lại tình cảm của quan khách đối với người chết. Kèm với đó là 02 chiếc bút và 02 ghế để tiện lợi cho khách ngồi ghi.
Chuẩn bị đội hậu cần nấu nướng
Đây là công việc cực kỳ quan trọng, nếu thuê được thì tốt nhất nên thuê còn không phải cắt cử người lo công tác này chu đáo. Tốt nhất nên chuẩn bị cỗ chay.
Chuẩn bị thuê phông bạt, bàn, ghế
Dù lúc tang gia bối rối nhưng các gia đình vẫn cắt cử người liên hệ thuê, phông, bạt, bàn ghế, thu dọn nhà cửa.
II. Các nghi thức trong đám tang
Lập bàn thờ Vong:
Bàn thờ vong là một cỗ linh sa được đặt trên một chiếc bàn. Trong linh sa có bài vị cà ảnh cùng tên tuổi của người chết. Trước bài vị là một chiếc mâm bồng bày nải chuối và quả bưởi. Dân gian giải thích rằng: Cây chuối có nhiều bẹ ôm bọc lấy nhau, quả ra thành buồng đông đúc, lớp lang, cây mẹ cây con mọc thành bụi, thành khóm um tùm, lá xòe thành tán che chở cho cây non là biểu tượng của tình cảm gia đình quần tụ, nhiều thế hệ, đông vui, yêu thương, đùm bọc, gắn bó, chở che. Chuối lại mọc thẳng không phát nhánh là biểu tượng cho tính thật thà, ngay thẳng và trung hiếu của con người.
Phát tang
Ở giai đoạn này, đại diện BTC sẽ đứng lên đọc tên từng gia đình. Con cháu 1 gia đình đứng xếp hàng ngay ngắn trước bàn thờ, người có vị trí quan trọng trong gia đình đứng trước thứ tự xếp từ lớn đến bé. Xếp thành 3-4 hàng. Người đại diện gđ bước lên nhận khăn và trao lại cho con cháu, truyền tay nhau, trật tự, có quy củ, không chen lấn.
Sau lễ phát tang, gia đình cử 02 người đứng ở 2 bên, 1 người chịu trách nhiệm đỡ lễ đặt lên bàn thờ, 1 người chịu trách nhiệm châm hương đưa cho khách.
Gia quyến làm lễ phát tang. Số khăn tang và mũ mấn được làm đủ với số con cháu, được đặt vào một chiếc mâm trên hương án. Sau khi an táng, cháu, chắt không phải đội tang nữa, nhưng con cái hoặc vợ, chồng thì vẫn đội khăn hoặc dùng một mẩu vải đen đeo trước ngực. Sau giỗ đầu, việc để tang này kết thúc. Trong vòng một năm tang trở này, người ta kiêng không đi đám cưới, không đi chúc tết… không đi các đảm hỷ.
Nhập quan, Khâm liệm
– Mời sư thầy đến cả nhà làm theo hướng dẫn của sư thầy – Di chuyển người chết nhập quan: Thi thể người chết được đặt trên chiếc chiếu dưới nền nhà, khăn phủ mặt, dùng vải trắng gói người chết lại và đặt vào trong quan tài, gáy được gối cao. Phong tục ở đây không thể thiếu một bộ tam cúc bỏ vào trong ván, để trừ trùng. Quan tài được đặt ở gian chính giữa, theo chiều dọc của ngôi nhà, song song với bàn thờ. Với những người chết có bệnh phù thũng, người ta dùng cám rang hoặc gạo rang giã nhỏ rắc vào trong ván để hút nước và khử mùi. Kể từ lúc đó đến lúc đưa tang trên quan tài luôn được thắp nến (nam 7 ngọn, nữ 9 ngọn). Nắp quan tài được mở hờ, lúc đưa tang mới đóng khít lại.
Phúng viếng:
Đám tang thường bắt đầu từ 3,4 giờ chiều hôm trước và kết thúc vào 9, 10 giờ sáng hôm sau. Sau lễ phát tang cho đến trước khi chôn cất là khoảng thời gian để thân nhân, họ hàng phúng viếng. Kể từ lúc này người con trai trưởng phải luôn đứng cạnh bàn thờ vong để cảm ơn những người đến phúng (đáp từ). Vật phẩm phúng viếng thường là hương, nến, rượu, vòng hoa, câu đối, và “phong bì”. Xưa kia người dân thường dùng rượu và gạo nhưng hiện nay, để giảm tiện nhiều người phúng bằng “phong bì”. Người đến phúng đứng thành hàng trang nghiêm trước hương án, một người đại diện bước ra nói lời chia buồn với tang chủ, sau đó họ dành một phúc cúi đầu mặc niệm người quá cố. Mỗi lễ thức lại được tấu một khúc nhạc riêng, được quy định sẵn, rất bài bản.
Hỏa táng
Nếu chọn hỏa táng, người chết sẽ được thiêu bằng các công nghệ hỏa táng nơi mình đăng ký, có thể thiêu lấy tro, thiêu lấy xương tùy gia đình chọn lựa hình thức. phần tro, xương được đựng trong hũ tro hoặc xương sẽ được xếp lại trong một hộp đựng về để an táng.
Chuẩn bị đưa tang khi đến giờ an táng
– Chuẩn bị đến giờ an táng, thầy chùa sẽ đến làm lễ, toàn bộ gia quyến người chết tập trung bên linh cữu, quỳ lạy theo hướng dẫn của thầy và người trong BTC lễ tang. – Bố trí người trông bàn thờ và phong bì: Thời điểm này rất lộn xộn nên cần bố trí từ trước người đứng trông chừng bàn thờ và thùng phong bì. Tránh việc kẻ gian lợi dụng thời điểm để làm liều, đồng thời thay gia chủ đáp lễ khi có khách viếng, báo cho gia chủ biết khách viếng. – Đọc điếu văn: Điếu văn 1 người đọc, lời cảm ơn của gia quyến đối với toàn bộ quan khách tham gia lễ đưa tiễn – Di chuyển quan tài: Để di chuyển quan tài, gia đình cần bố trí 01 người khiêng linh cữu, người lo việc nước thuốc, mời trầu tại nơi an táng.
Nếu chưa được chuẩn bị từ trước, huyệt phải được đào vào buổi sáng ngày chôn cất (tùy nơi). Lúc hạ huyệt, người con trai trưởng lấp hòn đất đầu tiên, sau đó các anh em con cháu khác lần lượt ném xuống một nắm đất, thể hiện ý nghĩa con cái đắp mộ cho cha mẹ. Chủ yếu là những người trong Ban quản lí nghĩa trang thực hiện công việc này. Lúc này mộ mới chỉ đắp sơ sài. Người ta phủ vài mảng cỏ rồi thắp hương và đặt bát cơm bông lên đó.
Rước vong về thờ
Ảnh, bát hương cùng mâm quả thờ trên linh sa được rước vào đặt lên bàn thờ vong, sau cúng 50 ngày thì rước ảnh lên bàn thờ của gia đình. Người ta lập một bàn thờ vong ở ngay nơi mà trước kia người chết nằm. Hai bên bàn thờ được treo câu đối thành hai hàng dọc. Trên bàn thờ luôn có hương khói, đèn nhang.
– Sau an táng cho người mất, các gia đình thường trở về nhà tập trung trước bàn thờ, làm theo hướng dẫn thầy chùa. – Mời họ hàng, bà con dùng cơm cảm ơn. – Dọn dẹp lại nhà cửa. – Tổ chức lễ cúng ngày, cúng tuần 35, 49 ngày đơn giản và thành tâm.
III. Các nghi thức sau đám tang
Cúng tam nhật
Sau 3 ngày thì cúng Tam nhật: nhờ thầy cúng và trong lễ có phóng sinh các con vật VD: chó, cá, gà… mục đích hồi hướng công đức cho người đã khuất, mong người đã khuất sẽ được đầu thai vào nghiệp lành. và sau đó ra mộ cúng mở cửa mả để có thể bồi đắp thêm phần đã sụt nún sau 3 ngày, dọn vệ sinh, có thể rào chắn cho trâu bò khỏi đi vào … vì sau khi lấp chỉ cuối năm mới được ra tảo mộ và bồi đắp, tu sửa lại thêm.
Cúng đầu tuần:
Ngoài bát cơm, quả trứng ngày ba bữa cúng vong thì sau 1 tuần sẽ có làm lễ cúng tuần.
Cúng 49 ngày
Ngày thứ 49, con cháu làm cỗ cúng tại nhà và mang xôi gà, rượu cùng trầu cau, hương lên chùa, đền lễ cho vong hồn người chết được mát mẻ, siêu thoát, sớm được đầu thai vào nghiệp lành. Sau 49 ngày người ta có thể rước vong linh lên chùa (với những cụ đã quy y nhà Phật). Lễ vật gồm trầu cau, xôi thịt cùng hương nến.
Cúng 100 ngày
Cúng 100 ngày rất đơn giản, mâm cúng tùy theo từng nhà nhiều ít khác nhau, tuy nhiên cơm trắng, muối hạt, và trứng là không thể thiếu.
Cải táng
Người chết từ ba năm trở lên mới được phép cải mộ. Người ta thường xem ngày, chọn giờ tốt, mua sẵn một chiếc tiểu sành để chuẩn bị cho công việc quan trọng này. Đến ngày đã định, trước khi đào mộ, con cháu làm lễ cúng tổ tiên, trình bày việc “thay nhà mới” cho người chết. Họ cũng sắp lễ đến cúng ở chùa, đền và trên mộ.
Kị mật
Người Việt xem trọng việc làm giỗ tổ tiên và thân nhân của mình mỗi năm, vào ngày mất của họ. Đặc biệt giỗ đầu luôn được tổ chức long trọng, thân nhân ở xa không về kịp đám tang thường đợi đến giỗ đầu mới về. Sở dĩ như vậy vì họ cho rằng sau một năm mà thân nhân người chết không ốm đau, làm ăn không thất bại, mồ mả không bị động thì người chết đó mới được coi là ra đi thanh thản, mồ yên mả đẹp và phù hộ độ trì cho con cháu.
Nhà tranh vách đất của đồng bằng Bắc bộ xưa
Chùa Kim Sơn Lạc Hồng đang cho dựng “nhà tranh vách đất” đây là công trình tâm huyết của thầy Thích Trí Thịnh – Trụ trì chùa Kim Sơn Lạc Hồng.
Từ lâu ngôi nhà tranh vách đất đẫ rất quen thuộc với người dân Việt Nam thế hệ 7x đổ về trước. Tuy nhiên thời đại kinh tế ngày càng phát triển, KHKT phát triển theo và giờ người ta đã không còn nhìn thấy nhà tranh vách đất nữa, thay vào đó là những nhà cao tầng, biệt thự được xây bằng xi măng kiên cố.
Để giúp cho mọi người có những hồi ức đẹp bên mái nhà tranh, giúp con trẻ biết được thế nào là nhà tranh vách đất thì thầy đã quyết định cho dựng 1 nhà tranh vách đất ở phía dưới sân chùa. đây sẽ là nơi quý khách có thể nghỉ ngơi, chụp ảnh và thăm quan.
Toàn bộ khung của ngôi nhà đều được dựng bằng tre. phần thịt người ta dùng bùn trộn rơm để đắp lên tường. Phần mái được lợp bằng lá cọ rất mát vào mùa hè.
Một vài hình ảnh dựng nhà:
Xem tuổi bốc mộ
Bốc mộ hay còn gọi là sang cát, cải táng là phong tục từ lâu đời với quan niệm là làm cho thân thể người đã khuất được sạch. Phong tục cải táng khởi nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại và thương lái Trung Quốc chết tại Nam mà gia đình có nhu cầu đưa xương cốt về chính quốc. Về sau thành lệ và thành phong tục, cũng do yếu tố địa lý Đồng bằng Bắc Bộ là đất pha cát phù xa , khi chôn người mất xuống phần nhiều là tiêu hết thịt (thậm chí có chỗ đất còn hao cả xương nếu không cải táng thì chỉ còn đất).
Tục cải táng, sang cát, bốc mộ là một phong tục lâu đời, thể hiện cái tâm của người sống với người thân đã khuất, an tâm với niềm tin… họ không bỏ người thân thối rữa trong đất ẩm, mà tặng họ một ngôi nhà mới đẹp đẽ, chắc chắn hơn. Sau đây là một số lưu ý khi cải táng:
I. Chọn ngày bốc và di dời mộ
Lưu ý nếu mộ là mộ kết thì không nên di chuyển hay bốc mộ.
A/ Trước hết cần lưu ý trong việc chọn ngày :
Theo lịch Âm , tháng đủ có 30 ngày , tháng thiếu có 29 ngày . Tuy lịch xếp là vậy , xong , trong việc chọn ngày không phải cứ giở lịch ra thấy ngày 29 hoặc 30 đã là hết tháng . Ta cần phải căn cứ vào 24 tiết khí hay chỗ nào hòa trực ( Tức là hai trực giống nhau nằm kề ngày nhau ) , lúc đó mới sang tháng khác . Bởi vậy , nhiều khi đã leo qua tháng mới theo lịch 5-7 ngày mà vẫn phải tính theo tháng cũ . Nên để ý là đầu tiết bao giờ cũng đi liền 2 trực giống nhau , một trực là ngày cuối tháng , một trực là ngày đầu tháng . 12 trực KIẾN – TRỪ – MÃN – BÌNH – ĐỊNH – CHẤP – PHÁ – NGUY – THÀNH – THÂU – KHAI – BẾ , mỗi ngày là một trực . Các trực tốt (màu xanh biển) nên sử dụng như sau:
KIẾN, PHÁ, gia trưởng bệnh
TRỪ, NGUY, phụ mẫu vong
MÃN, THÀNH đa phú quý
CHẤP, BẾ, tổn ngưu dương
BÌNH, ĐỊNH, hưng nhân khẩu
THU, KHAI, vô họa ương
B/ Một lưu ý nữa là khi xem ngày bốc mộ:
Coi ngày giờ tẩm liệm, chôn cất, bốc mộ thì phải coi theo tuổi của người chết. Cũng nên chọn ngày giờ đẹp để bốc mộ, chọn ngày giờ tại Xem ngày tốt xấu!
C/ Tuổi và ngày nên chọn theo Tam hợp , Lục hợp , Chi đức hợp , Tứ kiểm hợp . Tránh các ngày Lục xung , Lục Hình , Lục hại . Về Ngũ hành nên chọn ngày tương sinh hay tỷ hòa , tránh chọn ngày tương khắc .
D/ Tùy theo tháng mà khi bốc hay di dời mộ , cần phải tránh thêm các ngày Trùng tang , trùng phục , Tam tang , Thọ tử Sát chủ , Nguyệt phá , Thiên tặc Hà khôi …
Thông thường, khi bốc hay di dời mộ , người ta tránh làm vào các tháng hè nóng nực mà thường chọn vào các tiết từ cuối thu (Thu phân khoảng 23/09 dương lịch hàng năm) cho tới trước tiết Đông Chí (khoảng 22/12 dương lịch hàng năm). Sau đó qua năm thường chọn từ Kinh chập (khoảng 5/03 dương lịch hàng năm) tới tiết Thanh Minh (khoảng 05/04 dương lịch hàng năm).
E/ Một số ngày cần quan tâm :
1/ NGÀY ÁC SÁT : Các ngày Giáp , Canh Tý – Giáp Tuất – Quý Mùi – Mậu Thìn – Ất Hợi – Mậu Dần . Không kể tháng nếu gặp các ngày này là Ác Sát . 2/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI : Giáp , Canh Thìn – Ất , Tân Tỵ – Bính , Nhâm Thân – Đinh Dậu – Mậu Tuất – Kỷ Sửu , Hợi . 3/ NGÀY BẠCH HỔ ĐẠI SÁT : Tuần Giáp Tý : Ngày Thìn , Tuất . Tuần Giáp Tuất : Ngày Đinh Sửu . Tuần Giáp Thân : Ngày Bính Tuất . Tuần Giáp Ngọ : Ngày Ất Mùi . Tuần Giáp Thìn : Ngày Quý Sửu . Tuần Giáp Dần : Ngày Nhâm Tuất . 4/GIỜ THIÊN LÔI :Ngày Giáp , Ất giờ Ngọ . Ngày Bính , Đinh giờ Tuất . Ngày Canh , Tân giờ Sửu . Ngày Nhâm , Quý giờ Mão . 5/ THIÊN SƯ SÁT THEO GIỜ : Ngày Dần , Thân , Tỵ , Hợi giờ Thìn , giờ Hợi . Ngày Tý , Ngọ , Mão , Dậu giờ Thìn , Dậu . Ngày Thìn , Tuất , Sửu , Mùi giờ Thìn , Mùi . 6/ GIỜ KHÔNG VONG : Ngày Giáp Thân giờ Kỷ Dậu . Ngày Ất Mùi giờ Canh Ngọ . Ngày Bính Thìn giờ Tân Tỵ . Ngày Đinh Mão giờ Nhâm dần . Ngày Mậu Tý giờ Quý Sửu . 7/ GIỜ NHẬP QUAN KIÊNG HỒN NGƯỜI SỐNG : Ngày Giáp , Ất giờ Mão . Ngày Bính , Đinh kiêng giờ Sửu . Ngày Mậu , Kỷ kiêng giờ Hợi . Ngày Canh , Tân kiêng giờ Sửu . Ngày Nhâm , Quý kiêng giờ Thìn . 8/ NGÀY SÁT SƯ : Ngày Giáp Tý , Canh Ngọ : xấu với người nhà . Ngày Bính Tý , Ất Mùi : Sát người Thày . Ngày Nhâm Tý : Không lợi cho tất cả . 9/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI KIÊNG VIỆC HUNG : – Năm Giáp Kỷ – Tháng 3 – Ngày mậu Tuất .Tháng 7 – Ngày Quý Hợi . Tháng 10 ngày Bính Thân . Tháng 11 ngày Đinh Hợi . Năm Ất , Canh – Tháng 4 ngày Nhâm Thân . Tháng 9 ngày Ất Tỵ . Năm Mậu , Quý : Tháng 6 ngày Kỷ Sửu . Năm Bính , Tân : Tháng 3 ngày Tân Tỵ . Tháng 9 ngày Canh Thìn . Tháng 10 ngày Giáp Thìn . Năm Đinh , Nhâm không phải kiêng . 10/ GIỜ LIỆM KIÊNG MỘC VÂY QUANH QUAN TÀI : Ngày Tý giờ Dậu . Ngày Sửu giờ Ngọ . Ngày Dần giờ Dần . Ngày Mão giờ Sửu . Ngày Thìn giờ Tuất . Ngày Tỵ giờ Tỵ. Ngày Ngọ giờ Thìn . Ngày Mùi giờ Hợi . Ngày Thân giờ Thân . Ngày Dậu giờ Mùi . Ngày Tuất giờ Mão .
II/ Công việc cần chuẩn bị trong ngày bốc hay di dời mộ.
Thông thường sau khi chọn được ngày bốc mộ , người Thày cũng cần phải xem giờ bốc mộ cho thân chủ . Tùy theo giờ tốt mà bốc , nhưng tất cả cùng phải chung một điều là bốc mộ phải làm vào ban đêm . Việc này nhằm tránh cho xương cốt gặp ánh sáng sẽ bị đen đi . Khi bốc mộ , người ta thường đào trước phần lớp đất ở phía trên trước , sau đó đúng giờ tốt mới bắt đầu mở tấm ván Thiên lên ( Tấm ván Thiên là tấm ván trên nóc quan tài ) .
Trước khi tiến hành bốc mộ , người nhà phải có làm một cái lễ tại Gia tiên để trình báo Tổ tiên . Tại nơi bốc hài cốt ngoài nghĩa trang cũng phải có một cái lễ trình Quan Thần Linh sở tại . Thông thường là một bộ đồ Quan Thần Linh ( Áo , mũ , ủng ) , ngựa và 1000 vàng hoa màu đỏ , giấy tiền vàng bạc , trầu cau , rượu , thuốc , đèn nến , gạo muối . Nhiều nhà còn cúng thên Tam sên ( trứng vịt luộc + Thịt lơn luộc và một nhúm tôm khô bóc vỏ ) , xôi , gà trống luộc nguyên con ….
Vật dụng cần thiết cho quá trình bốc mộ là một cái tiểu sành , một cái quách đặt làm sẵn , một miếng vải đỏ , một tấm ni lông , vài chai rượu nặng và nước Vang ( Còn gọi là nước ngũ vị hương – Đừng nhầm với gói ngũ vị hương để nấu Ca ri – Gói Vang có bán sẵn ở tiệm thuốc Bắc ). Một vài cái xô , chậu nhựa để rửa xương .
Phần lớn việc bốc mộ diễn ra vào lúc nửa đêm, tuy nhiên tốp thợ thường phải thức trọn đêm cùng gia chủ làm công việc chuẩn bị như cúng bái và chuyển hài cốt sang mộ mới. Trung bình để bốc xong một ngôi mộ, mỗi tốp thợ phải làm việc quần quật suốt hơn một tiếng đồng hồ. Trước khi đào, họ phải xác định vị trí huyệt thật chính xác, nhiều ngôi mộ do chôn thời gian lâu, quá trình tu sửa bị sai lệch vị trí so với ban đầu, nếu không biết cách sẽ phải đào rất vất vả, có khi đào nhầm sang mộ bên cạnh.
Công việc bốc mộ thường là do những người chuyên môn bốc mộ đảm nhiệm . Khi ván Thiên được cậy ra , người ta phải đổ vài chai rượu có nồng độ cao vào quan tài để tảy rửa âm Khí . Sau đó mới tiến hành lấy cốt . Nhiều khi gặp trường hợp hài cốt chưa phân hủy hết , người ta phải dùng xăng đổ vào mộ và đốt cháy thịt còn sót , sau đó phải dùng dao dóc những mảnh thịt còn lại và đem rửa bằng nước vang . Sau khi nhặt hết cốt , rửa sạch , người ta trải tấm ni lông ở dưới , tấm vải đỏ ở trên và lần lượt xếp xương theo thứ tự của người . Riêng cái sọ phải dùng trà hoặc vải kê để cho mặt hướng lên trên . Mọi thứ xương phải kiểm tra cho đủ , không được phép thiếu .Có một cách mà dân gian thường sử dụng để kiểm tra đó là: sau khi “đãi cốt” xong, người ta thường cắm một bó hương to giữa lòng đáy huyệt, nếu làn khói quyện lại, bay thẳng lên có nghĩa đã hết cốt, nếu làn khói tỏa xuống, lởn vởn trong lòng huyệt có nghĩa là xương cốt của người chết chưa hết, cần phải kiểm tra lại.
Trên đây là một số lưu ý khi bốc mộ, trong trường hợp quý khách có nhu cầu đưa mộ lên Lạc Hồng Viên, công ty cũng có chuyên gia để giúp quý khách chọn được ngày bốc và người bốc thích hợp để gia đình yên tâm.
Hôm nay là ngày rằm tháng bảy, ngày rằm trung nguơn. Rằm tháng giêng gọi là rằm thượng nguơn, rằm tháng bảy là rằm trung nguơn, rằm tháng mười là rằm hạ nguơn. Một năm có ba nguơn, thường gọi là tam nguơn tứ quý. Tức một năm có bốn mùa và ba lễ cúng vào tháng giêng, tháng bảy và tháng mười. Riêng Phật giáo có thêm một lễ trọng nữa là mừng đức Bổn Sư giáng sinh vào rằm tháng tư.
Hôm nay chúng tôi sẽ nói về hiếu đạo trong Phật giáo. Tinh thần hiếu đạo này nhiều và rộng, chúng tôi chỉ lược nói những việc bình thường để quý Phật tử có thể thực hành được trong sinh hoạt hằng ngày, không phải mang tội bất hiếu. Bởi vì bất hiếu là tội lớn lắm. Tội này nếu phạm sẽ rơi vào địa ngục Vô gián, chịu muôn vàn khổ đau. Tôi còn nhớ câu chuyện có thực, xảy ra trên xứ sở của chúng ta. Truyện kể trên cánh đồng của những người nông dân đang chuẩn bị trồng trọt, có mấy chú mục đồng lùa trâu đi qua. Bỗng một em la sảng, té lăn giãy giụa rồi ngất lịm. Những người dưới ruộng chạy lên cứu, nhưng không làm sao đụng đến thân của em được, đến lúc như em đã chết mới bồng lên được. Mọi người tập trung để cứu sống em.
Khoảng một tiếng sau em bắt đầu tỉnh lại. Khi tỉnh lại thì mình mẩy của em xạm đen giống như là bị đốt cháy vậy. Đau nhức khổ sở không ngồi, không nằm được. Bấy giờ em kể lại trong nước mắt: Em theo đoàn trâu qua bờ rào, bước lên cánh đồng, em thấy có một cổng thành to lớn uy nghi. Em đến gần thì cánh cổng mở ra và có một lực hút em vào trong đó, không cách gì cưỡng lại. Em vừa vào thì cửa đóng ầm và lửa bắt đầu cháy. Bốn bên, trên đầu, dưới chân đều là lửa. Nên lúc em la hét là lúc bị lửa đốt. Đó là một hiện tượng chứ chưa hẳn bị đọa vào địa ngục. Do đời trước đã tạo nghiệp ác và cũng đã bị những quả báo khổ đau cùng cực nhưng còn dư báo. Dư báo này trả bằng cách nào và thời gian nào, tội nhân không biết được. Mỗi chúng ta ai cũng có dư báo hết. Nếu chúng ta tu hành, làm lành, có hiếu, có đạo đức thì dư báo của chúng ta được tích tập bằng đạo đức, bằng những quả chân thiện. Trái lại nếu chúng ta ưa gây tạo những nghiệp nhân xấu, làm những điều thương luân bại lý thì hậu quả dư báo hay hiện báo xấu không thể nói được. Đó là một chuyện thực.
Địa ngục ở đâu? Từ tâm chúng ta. Mỗi khi chúng ta bất an, chúng ta nghĩ tưởng làm một việc gì bất nhẫn, phi pháp thì bị địa ngục tâm hành phạt. Người con Phật chúng ta hiểu được như vậy thì nên dừng bớt những hành động, những nghiệp tập không tốt. Trong hiện đời, nếu chúng ta trầm lắng, yên tĩnh sáng suốt thì chúng ta sẽ nhận biết những điềm báo trước về nghiệp quả của mình. Người xưa dạy chúng ta nói lời gì, làm việc gì, nghĩ tưởng gì, đều phải suy xét. Nếu đó là lời nói độc, là suy nghĩ xấu, là hành động phi pháp thì chúng ta liền dừng. Người không biết dừng thì khi quả báo đến có kêu than, cầu cứu cũng không thể kịp.
Việc tu là phải tu ngay trong nhân, tu ngay gốc. Nếu lúc ban đầu chúng ta buông tay, phiêu lưu rồi thì hậu quả nguy hại vô kể. Đã lỡ gây tạo nhân không tốt thì khi hậu quả chúng ta sẵn sàng chấp nhận trả nghiệp và kiên quyết không gây nhân đó nữa. Nếu nhận rồi lại tạo nữa thì không bao giờ hết khổ. Đó là tinh thần trách nhiệm của người con Phật.
Trong kinh Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật dạy: Người muốn báo đền ân nghĩa to lớn của cha mẹ không có cách gì hơn là phát tâm Bồ đề. Bồ đề là giác, phát tâm Bồ đề là phát tâm cầu giác ngộ, và tìm cách hướng dẫn, tạo điều kiện để cho những người thân của mình cùng phát tâm Bồ đề nữa, đó là báo ân rốt ráo.
Kinh cũng nói: Bồ tát muốn tri ân báo ân thì nên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và dạy chúng sanh cũng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như vậy. Phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay phát tâm Bồ đề tức là phát giác tâm. Giác tâm là khi làm một việc gì, chúng ta dùng trí dụng để kiểm soát được mình. Tâm giác nếu khai mở thì sáng suốt, sẽ vỡ lẽ ra mọi thứ. Còn đóng kín lại thì u mê ám chướng dẫy đầy.
Vì vậy điều quan trọng là chúng ta khai mở trí giác và làm sao khuyến khích giúp đỡ hỗ tương cho những người chung quanh mình cũng tỉnh giác. Bồ tát thường hay phát đại nguyện: “Nếu tôi chứng được Vô Thượng Bồ Đề thì tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, khiến tất cả được an trụ trong cảnh Đại Niết Bàn, lại giáo hoá tất cả chúng sanh đều được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật”. Đó là một hạnh báo ân. Nghĩa là mình đã phát tâm cầu giác ngộ, tu tập theo đạo giác ngộ và động viên, khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ của mình cùng phát tâm tu tập như vậy.
Nhờ giác tâm mà chúng ta nghiệm lại tất cả hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ tính toán đều vì lợi ích chung. Mở rộng lòng ra và ứng dụng trí tuệ thì dù một việc làm hết sức khó khăn, chúng ta cũng làm được.
Tâm nguyện của người tu chân chánh không phải là ngồi đó kêu cầu Thần Thánh ban cho chúng ta cái này cái nọ. Mà tâm nguyện đó là ý chí chúng ta có thể thực hiện được. Ngày xưa các vị Phật, Bồ tát đã làm được thì bây giờ con nguyện cũng làm được. Dù trải qua bao nhiêu gian khổ con cũng nguyện thực hiện cho được. Như vậy mới là lời nguyện chân chánh của người con Phật. Không phải đốt nhang khấn vái thì thầm mà phải phấn đấu vươn lên. Người nguyện bằng cái miệng mà không phấn đấu chừa những lỗi lầm, làm những việc thiện thì cũng không có Thánh Hiền Phật Trời nào ban cho phước lạc cả.
Nên người tu từ phát tâm giác, hướng dẫn cho người chung quanh phát tâm như vậy, đồng thời cộng với những tâm nguyện của mình gọi là tu từ cội gốc lành. Gốc đó có thể phá trừ ba nghiệp ác ở thân, khẩu, ý của chúng ta. Bởi vì tất cả những tội lỗi, những quả báo xấu xa đều từ gốc nghiệp tập là tham, sân và si. Nếu chúng ta nhận biết và tu sửa ngay tham, sân, si thì mọi thứ theo đó bình ổn. Chánh báo tốt, tức là thân tâm tốt thì y báo, tức hoàn cảnh chung quanh sẽ theo đó mà được tốt. Muốn sửa y báo thì phải sửa ngay chánh báo. Ví như muốn đừng bị lũ lụt mà khai thác cây rừng bừa bãi thì làm sao ngăn ngừa được. Biết việc làm nào đưa đến tai hại thì chúng ta đừng làm. Muốn làm cũng phải khắc phục, dừng lại, không gây nhân xấu thì làm gì có quả xấu. Đó là điều tất yếu trong tinh thần nhân quả.
Phát tâm giác, tu cầu giác ngộ cho bản thân mình và hướng nguyện toàn thể đều được giác ngộ. Đó là tâm nguyện duy nhất của người con Phật biết ân và báo ân. Việc làm này lớn lao nhưng chúng ta có thể làm được. Bởi vì việc tu không có thời gian. Tu chừng nào thành tựu mới thôi. Miễn sao chúng ta có tâm kiên quyết, dài lâu, bền bỉ, vững chắc để chịu đựng, để vượt qua, để khắc phục, để thành tựu sở nguyện của mình. Được như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Tất cả thệ nguyện thế gian và xuất thế gian, không có thệ nguyện nào bằng thệ nguyện cầu giác ngộ giải thoát. Vì người con Phật là tu theo Phật, làm theo lời dạy của Phật, chỉ cầu giác ngộ, không cầu gì khác. Mình được giác ngộ và giúp mọi người giác ngộ. Không cầu sống lâu, không cầu giàu có. Bởi vì sống lâu rồi cũng chết, tiền tài cũng không chắc thực. Cho nên chỉ có duy nhất là cầu thành Phật. Cầu thành Phật thì chúng ta phải có tâm giác, tâm Phật. Phát huy được tâm giác thì mới thành tựu quả Phật. Hằng ngày chúng ta kiểm tra thấy tham, sân, si tăng trưởng đầy dẫy thì biết là ma chứ không phải đệ tử Phật. Người tu dù trong hoàn cảnh nào, tại gia hay xuất gia, mỗi ngày kiểm thấy tham, sân, si giảm bớt thì biết mình tu đúng. Những việc làm công đức, ngồi thiền, tụng kinh, bố thí, cúng dường cần thiết để hỗ trợ chứ chưa phải là chính yếu. Cũng giống như chiếc áo chưa phải là nhà tu mà nhà tu thì phải sửa từ tâm, tu từ tâm và hành động từ tâm.
Đã có những Phật tử trải qua một quá trình tu không phải là ngắn mà vẫn chưa thể hiện được mình là người Phật tử. Tôi biết một vị hồi xưa học đạo với sư ông tôi. Trải qua thời gian dài học đạo với thầy tôi, bây giờ vị đó lại đến học đạo với tôi mà cũng chưa thành Phật tử. Vì sao chưa thành Phật tử? Về nhà con cháu nói gì đó, tức giận la lối, tức là học Phật mà không áp dụng lời Phật dạy. Tu làm sao cho tham, sân, si giảm nhẹ, thì dù quí vị có ngồi tại chợ, trong quán v.v… quí vị cũng được an lạc.
Những vị Thiền sư, những vị Bồ tát đi vào cuộc đời này là do các Ngài làm chủ được tham, sân, si nên các Ngài đi lại tự tại trong thế gian. Ngang qua chỗ hát bội cũng bình thường, chỗ nhậu nhẹt không hề dính mắc. Như vậy mới độ sanh được. Người tu hiếu đạo cũng phải phát huy được tính giác của mình. Ở đây có hai việc: Một là tính, hai là hạnh.
Trước nhất là nói về tính chất. Tính chất ở đây là gốc, tức là dùng ý chí vững mạnh, đạt cho được gốc bất sanh bất diệt của mình. Người tu theo đạo Phật không phải chán đời, yếm thế, dễ duôi. Người tu Phật phải cứng rắn, dứt khoát, trí tuệ. Trong kinh hay trong ngữ lục của các Tổ nói người thấy được và sống được với tính giác của mình, là người thành tựu được muôn hạnh. Có người nói tính tôi nóng lắm, lời đó không đúng. Bởi vì tính là cái vô hình, bất sanh bất diệt, là trí tuệ trùm khắp chứ không phải là nóng là lạnh, là thương là ghét, dài hay ngắn, xấu hay tốt gì cả. Cho nên nói tính tôi hay nóng là không đúng mà phải nói là bệnh của tôi hay nóng. Bây giờ tôi trị cái bệnh hay nóng thì mới bỏ được. Còn nói tính thì suốt đời, tới chết cũng không bỏ được.
Tóm lại, nói đến bản tính thì rỗng rang sáng suốt, bất sinh bất diệt, xưa nay mỗi người đều sẵn như vậy, chỉ vì chúng ta bỏ quên nên không sử dụng được. Giống như chúng ta có nhiều tiền xu, bỏ đại trong góc nào đó rồi quên đi, muốn tìm mà tìm không được. Khi lần lần yên lắng, lượm lựa trong góc đó. Lượm lựa mãi nó sẽ trồi ra. Cũng như vậy, chúng ta yên lắng tham, sân, si, đừng chạy theo bên ngoài, thì mình sẽ nhận ra được tính giác của mình.
Hai là hạnh. Người phát huy được tính đó rồi thì đến hạnh. Ví dụ như người Phật tử, lúc đầu mới đi chùa, chưa hiểu đạo. Thời gian sau được học, được nghe, được hiểu, thấm nhuần Phật pháp thì mới phát huy đức hạnh. Như người ấy thấm nhuần được lời dạy của Bồ tát Quán Thế Âm là phải nhẫn chịu mọi sự mới thành tựu được đại nguyện của mình. Nhờ thấm nhuần mà tâm nhu hòa nhẫn nhục. Nhẫn nhục như thế nào? Tất cả những gì bên ngoài đem đến không chấp nhận, bình thản với mọi việc. Do đó người con Phật thờ Phật, thờ Bồ tát không có nghĩa là thờ hình ảnh của các Ngài để trấn giữ nhà cửa cho mình. Quan niệm đó sai lầm. Nhìn vào tượng Bồ tát Quán Thế Âm, thấy dung nhan Ngài, nhớ lại công phu tu hành và thành quả của Ngài, Ngài làm được mình cũng làm được. Bởi vì khi làm Ngài cũng còn là một chúng sinh. Như câu chuyện Quan Âm Thị Kính. Hồi tiểu Kính Tâm mang bị lên núi vào chùa Vân Tự, lúc đó Ngài đâu phải là Bồ tát (Nếu có Bồ tát thì là Bồ tát nhân) mà Ngài là một người nữ. Gặp tình huống éo le trong gia đình, cô giả trai tìm chỗ để tu hành. Chịu bao nhiêu oan khiên roi vọt, tất cả Ngài đều nhịn nhục được nên mới thành tựu được quả vị Bồ tát. Mỗi khi chúng ta nhìn vào tượng Phật, tượng Bồ tát là học những đức hạnh của các Ngài. Như nhìn tượng của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, vị giáo chủ cõi Ta bà, chúng ta liền nhớ, trải vô lượng kiếp, Ngài đã chịu đựng những khó khổ, nhẫn nhục và thành tựu trí tuệ, từ bi trùm khắp. Chúng ta học theo hạnh của Ngài, không nhiễm, không vướng. Trong vương vị hoàng tử, lại đi tìm đường để cứu khổ cho bản thân và tất cả chúng sanh. Ngài và người hầu qua dòng sông A-nô-ma, rút gươm cắt tóc, cởi trả hết hoàng bào ngà ngọc, mặc áo nhuộm làm một nhà tu khổ hạnh ở trong rừng. Năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh, Ngài đã học được với những vị đại tiên. Nhưng thấy chưa phải là con đường rốt ráo nên từ giã đi theo con đường của mình. Cuối cùng, dưới cội Bồ đề Ngài buông tất cả để thiền định.
Ngài phát đại nguyện: Dù thịt nát, xương tan, nếu không chứng được quả Vô Thượng Bồ Đề thì quyết không rời khỏi chỗ này. Khẳng định như vậy, cuối cùng Ngài bừng ngộ, trí tuệ trùm khắp, thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, trở thành bậc toàn giác ở trong thế gian. Cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng cho toàn thể Phật tử chúng ta. Từ giáo lý của Ngài chúng ta chiêm nghiệm lại mình, thân này dù có cưng chiều bao nhiêu thì cũng phải bỏ. Cái chúng ta cho là tâm cũng là bóng dáng của tiền trần, chẳng qua chỉ là một mớ vọng tưởng hỗn tạp. Cả thân lẫn tâm chúng ta đều giả tạm hà huống là gia đình, mọi thứ chung quanh có thật đâu. Còn khỏe mạnh, tỉnh táo, thở ra thở vào thì còn nói ta nói người, chớ như thở ra mà không hít vào thì có ai cứu được đâu! Cha mẹ có thương cũng không biết làm sao. Dù thạc sĩ y học suốt cả đời nghiên cứu thuốc trị bệnh cho mọi người nhưng rồi cũng có những bệnh không có thuốc trị.
Người tu khi đã thấm nhuần đạo lý này rồi thì phát huy đức hạnh của mình. Nhờ đó mà hoàn toàn tỉnh táo đối với tất cả những sự kiện chung quanh. Sống và làm tất cả các việc công đức như vậy, với một tâm hồn sáng suốt tỉnh táo, không bị vướng mắc gì hết là tu đạo. Cho nên nói nếu Bồ tát phát tâm Bồ đề thì nhất định chứng được đạo quả Bồ đề. Trọn được đạo đại thừa, thu nhiếp được tất cả thiện pháp. Nghĩa là thuần thục, thấm nhuần, phát huy được hạnh thiện rồi thì thu nhiếp được tất cả pháp lành. Từ chỗ thấm nhuần đạo lý, tu tập một cách kiên quyết, thể hiện được đại hạnh và công đức sâu dày thì mới thành tựu được đạo quả.
Bồ tát khi thấy chúng sanh khổ não, sinh lòng thương xót nên phát tâm Bồ đề tu tập, thành tựu đạo quả Vô Thượng. Cũng có trường hợp Bồ tát cảm nhận nỗi khổ điêu đứng của chúng sanh nên các Ngài nguyện thay họ chịu khổ. Nhờ thế mà thành tựu đạo quả Bồ đề. Đây gọi là chủng, hạnh, tâm giác của người con Phật. Nghĩa là làm sao chúng ta phát huy được tâm, mở được trí, thực hành tâm trí của mình cho thật xứng hợp với tánh giác thì nhất định sẽ thành Phật.
Về nỗi khổ của chúng sanh thì những sự việc gì xảy đến chúng ta không hề biết, bởi vô minh điên đảo muôn đời ngăn che. Nghiệp nhân chúng ta đã gây từ thuở nào và phải trả vào thời gian nào, không ai biết trước. Nhưng nhờ chỗ không biết này chúng ta phấn đấu tu tập, tích cực đốt giai đoạn, chuẩn bị tư lương khi phải trả nghiệp. Chính chỗ không biết cũng là cái hay cho việc tu hành. Nếu biết tới bảy mươi tuổi mình mới bị tai ách mà năm nay mình mới hai mươi tuổi thì thấy thời gian còn dài, rồi buông lung thì sẽ chồng chất thêm tội nghiệp. Do không biết cho nên khi nhận được và thấm nhuần đạo lý, chúng ta lo tu, do đó có thể chuyển được nghiệp.
Người thối chuyển tâm Bồ đề là do phát huy không nổi ý chí, không nhận thấu đáo được phương thức tu tập. Do vậy việc tu học, hành trì công phu v.v… đều bất ổn. Đây là thối tâm thường. Có người khi gặp một sự việc bất trắc trên đường tu phải vấp ngã. Vì không có ý chí, chưa vững tâm cho nên bỏ cuộc, đi theo con đường khác. Ví dụ như có người phát tâm tu một thời gian rồi gặp trở ngại, bỏ chùa về thế tục. Nếu sống như một Phật tử bình thường, lương thiện, tu hành giữ năm giới thì tốt đẹp biết là bao nhiêu, đằng này bỏ chùa về rồi bất cần. Như kẻ bất đắc chí, nhậu nhẹt, tụ tập bày ra chuyện này chuyện kia, hủy báng Tam Bảo. Đây là loại người thối tâm rốt ráo, thối mà không bao giờ quay lại nữa.
Một khi gây tạo những nghiệp nhân xấu rồi thì phải trả, đời này kiếp nọ trả hoài biết chừng nào mới xong. Mình gây nghiệp thì nhiều lắm. Mỗi ngày ý nghĩ mông lung, miệng nói xàm đủ thứ, thân thì hành động đủ chuyện hết. Mỗi hành động, mỗi lời nói của mình đều kết thành nghiệp, thành năng lực mà năng lực đó quyết định cho cuộc đời, cho sinh mệnh của mình trong hiện tại và luôn cả trong những đời kế tiếp. Chúng ta đã gây tạo thế nào thì kết quả cũng theo đó mà thọ nhận. Là người biết tu, sẵn sàng trả tất cả những nợ nần đã vay nhưng không gây thêm nữa mới là giải thoát.
Bồ tát là người biết mở rộng lòng mình, phát huy được tính giác, phát đại nguyện đi vào cuộc đời, nguyện thay cho tất cả chúng sanh mà chịu khổ, nguyện cho tất cả chúng sanh đều tu theo giác đạo. Đại nguyện đại hạnh của Bồ tát đi vào cuộc đời là như vậy. Tôi kể lại câu chuyện tiền thân của Phật. Trong một tiền kiếp, Ngài đã gây nghiệp nhân xấu ác nên phải đọa địa ngục hỏa xa (Cái xe bằng lửa). Trong đó Ngài cùng hai người bạn bị cột vào bánh xe bằng lửa, phải kéo đi bằng sức của mình. Từ bánh, thành, căm, trục xe đều bốc lửa. Ngồi trên xe là mấy ông đầu trâu mặt ngựa cũng phun ra lửa. Tội nhân bị cột trong xe rồi thì cháy đỏ nên đi không nổi. Đã vậy người trên xe còn dùng đinh ba đâm vô cổ hoặc thọc vào bụng. Hai người bạn của Ngài chịu không nổi nên chết, còn một mình Ngài ráng kéo. Lực của ba người mà bây giờ đổ dồn về một mình Ngài. Nhưng Ngài vững nguyện, biết đây là hậu quả mà mình phải trả, hai người bạn chỉ bị ảnh hưởng thôi. Cố gắng hết sức nhưng không chịu nổi, Ngài té nhào. Nhưng đặc biệt, khi bị khổ đau, nặng nhọc, bị bức xúc gần chết như vậy mà Ngài nói lên lời này với quỷ sứ: “Thưa các ông, bạn tôi yếu đuối không cách gì kéo nổi, xin các ông nới tay một tí”. Nghe câu nói đó quỷ sứ nổi giận đâm Ngài chết. Nhờ chết trong tâm rỗng rang, không thù hận, tâm rộng mở thương người nên chết rồi Ngài thoát khỏi khổ báo.
Sau khi thoát rồi Ngài có lập nguyện như sau: “Người chịu tội thật đáng thương xót, tôi xin thay họ chịu tất cả những đọa đày khổ đau của chúng sanh đã tạo tội và mong rằng mọi người tỉnh táo, đừng gây tạo những nghiệp nhân để bị khổ như vậy nữa”. Do nguyện lực ấy mà Ngài được sanh về cảnh giới lành, nỗ lực công phu tu tập đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Phật tử chúng ta nên ôn lại nghiệp là gì. Là năng lực, là thói quen từ tham, sân, si của chính chúng ta. Nghiệp kết bởi ý nghĩ, nói năng, hành động của chúng ta. Nếu chúng ta nghĩ quấy, nói sai, hành động phi pháp thì bị quả xấu, nhất định như vậy. Cho nên người tu Phật là người tỉnh giác, kiểm soát được ba nghiệp của mình và làm chủ được thân, khẩu, ý. Tu tâm là tu như thế.
Trở lại vấn đề báo hiếu, chúng ta noi gương Tôn giả Mục Kiền Liên là một vị đại hiếu, chúng ta phải biết ơn và đền ơn. Đền ơn bằng cách không gây những nghiệp nhân xấu để mình bị khổ, hướng tiến mọi người chung quanh trong đó có thân nhân của mình được hết khổ. Đây là một pháp tu rất tích cực. Chúng ta ngồi lại kiểm điểm, loại những thói hư tật xấu, làm chủ được tham, sân, điên đảo của chúng ta, khó vô cùng. Quí vị thử nghiệm, ai đó tới nói với mình gây sự bức xúc, chúng ta hoặc buồn hoặc cũng sân si, ít khi bình tĩnh an ổn được. Chỉ có người phát tâm giác, biết quay về nhận lỗi lầm từ nghiệp của mình, từ tham đắm, sân hận, điên đảo, từ ý nghĩ, nói năng, hành động của mình. Chỉ ai bản lĩnh mới nhận ra chuyển đổi nghiệp cũ. Đó là người biết tu chân chính. Trong kinh Lăng Nghiêm, sau khi Phật chỉ cho Ngài A nan và đại chúng nhận được cái nào là tâm thật của mình, cái nào là bóng dáng các giả cảnh bên ngoài, Ngài liền tuyên bố: “Các ngươi thành Phật cũng từ các giác quan của các ngươi. Các ngươi bị đọa trong các đường ác cũng từ các giác quan”. Tức là từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình mà tu thành Phật và cũng từ đó mà đi trong luân hồi, chịu khổ đau.
Tóm lại, tu tâm là quan trọng, tu tâm là gốc. Quí vị ngồi kiểm lại, nếu việc gì sai thì cố gắng bỏ. Đừng nói anh tôi hút thuốc nên tôi hút thuốc, tại ông già tôi nhậu nên tôi nhậu. Không có chuyện đó. Mình phải có một thái độ dứt khoát, sáng suốt, khẳng định việc làm này, hành động này của mình, hậu quả sẽ theo sau. Hậu quả của việc làm luôn như bóng với hình. Người con Phật khi nắm chắc lý nhân quả và áp dụng lý nhân quả để tu thì an ổn. Lần lần được giác ngộ giải thoát, không có gì khó cả.
Hôm nay nhân ngày lễ Vu Lan, lẽ ra nói nhiều về hạnh hiếu, nhưng tôi muốn nhấn mạnh việc tu, làm sao chúng ta có thể tu cho đạt được kết quả mỹ mãn thì đạo hiếu đền trả không khó. Chúng ta thấy những người xuất gia bỏ cha mẹ, dường như mang tội bất hiếu. Vậy muốn đền bù hay thực hiện hạnh hiếu thì phải làm sao? Phải là người tu có đạo lực, phải giác ngộ mới mong đền bù nổi sự mất mát kia.
Do đó chúng tôi mong mỏi quí Phật tử từng phút giây tỉnh giác nhận và biết rằng mọi thứ từ tâm của chúng ta. Căn cứ nơi tâm mà chúng ta tu. Bất cứ hậu quả nào của chúng ta đều do tự mình gây chứ không do ai khác. Nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm. Vậy người Phật tử phải là người sáng suốt. Sáng suốt thế nào? Trả nợ và đừng gây thêm nợ. Rõ ràng chúng ta không vay nợ thì không bị nợ, còn trả thì sẽ hết. Phật tử chúng ta phải biết trả nợ như thế, trả trong tỉnh táo sáng suốt. Chúng ta thực hiện hiếu đạo bằng cách phát tâm Bồ đề, hướng dẫn những người thân cùng phát tâm Bồ đề. Nỗ lực tu tâm để được giác và giúp cho những người thân cùng được giác ngộ. Kinh nói: “Nhất nhơn thành đạo cửu huyền thăng” nghĩa là trong gia đình có một người tu thành đạo thì cửu huyền siêu thăng. Chữ thăng tức là bay lên. Hàng xuất gia chúng ta càng phải ráng tu hơn, không phải chỉ lo dâng cơm áo cho cha mẹ mới gọi là hiếu, mà phải lo tu hành để độ cửu huyền được siêu thăng, đó là đại hiếu.
Mong rằng tất cả chúng ta nỗ lực tu tập, hướng về ngày Báo Hiếu. Nguyện đem công đức ấy hồi hướng cho cha mẹ và thân bằng quyến thuộc nhiều đời đều được hưởng lợi lạc và đời đời gặp Phật pháp, phát tâm tu hành cho đến ngày cùng gặp nhau trong hội Phật.
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
1.Nghĩ đến thân, chẳng cầu không bệnh. Thân không bệnh thì tham dục dễ sanh.
2.Ở đời, chẳng mong không nạn. Không nạn thì kiêu sa ắt khởi.
3.Tham cứu tâm, chẳng cầu không chướng. Tâm không chướng thì việc học vượt thứ lớp.
4.Lập hạnh, chẳng mong không ma. Không ma thì thệ nguyện chẳng vững.
5.Sắp đặt việc, chẳng cầu dễ thành. Việc dễ thành thì chí còn khinh mạn.
6.Tình nghĩa qua lại, chẳng mong lợi mình. Lợi mình thì kém tổn đạo nghĩa.
7.Đối tiếp người, chẳng cầu nuông chiều. Hễ nuông chiều thì tâm sanh kiêu căng.
8.Thi ân bố đức, chẳng mong đền đáp. Mong đền đáp là ý còn mưu toan.
9.Thấy lợi, chẳng cầu mình được. Được lợi thì tâm si dễ động.
10.Bị hàm oan, chẳng cầu minh oan. Minh oan thì oán hận càng sanh.
Thế nên, Thánh nhân lập bày giáo hóa.
Lấy bệnh khổ làm thuốc hay.
Lấy hoạn nạn làm tiêu dao.
Lấy chướng ngại làm giải thoát
Lấy chúng ma làm bạn pháp.
Lấy khó khăn làm thành công.
Lấy kẻ giao hữu tệ bạc làm sự giúp ích.
Lấy người nghịch làm vườn đẹp.
Lấy bố đức làm dép rách.
Lấy lợi sơ sài làm giàu sang.
Lấy oan ức làm cửa hạnh.
Như thế, ở chỗ ngại biến thành thông. Mong được thông biến thành ngại. Vì thế, Đức Như Lai ở trong chướng ngại được đạo Bồ đề. Đến như bọn ông Ương- quật- ma- la và Đề-bà-đạt- đa, đều đến làm hại, mà Đức Phật vẫn thọ ký cho họ về sau vẫn thành Phật. Đâu chẳng phải họ là nghịch mà ta vẫn thuận, kia là hoại mà ta lại thành.
Song, đời nay người thế tục học đạo, nếu trước không ở chỗ ngại, khi chướng ngại đến khó bề dẹp nổi, khiến của báu pháp vương do đó mà mất. Đâu chẳng tiếc ư ! Đâu chẳng tiếc ư!